Thuốc kháng sinh dùng để điều trị mụn có thể sử dụng dưới dạng thuốc bôi hoặc thuốc uống

Thuốc kháng sinh bôi

Nhiều công thức kháng sinh dùng tại chỗ đã được phát triển, có thể dạng đơn chất hay kết hợp với các tác nhân khác. Thuốc kháng sinh ức chế sự phát triển của vi khuẩn P. acne và làm giảm quá trình viêm. Erythromycin và clindamycin là hai thuốc kháng sinh bôi phổ biến nhất trong việc điều trị mụn trứng cá, chúng sẵn có dưới nhiều tên thương mại và dạng bào chế khác nhau. Clindamycin và erythromycin đều có hiệu quả chống lại hiện tượng viêm trong mụn trứng cá ở dạng dùng tại chỗ với nồng độ 1-4% có hoặc không có bổ sung thêm kẽm, tuy nhiên, việc bổ sung 2% kẽm sulfat và nicotinamid không khác với giả dược trong hiệu quả điều trị của mụn trứng cá. Clarithromycin, azithromycin và nadifloxacin dạng dùng tại chỗ sẵn có ở Ấn Độ, nhưng các thử nghiệm về hiệu quả và sự an toàn của các tác nhân này thì thiếu chứng cứ.

Erythromycin và clindamycin là hai thuốc kháng sinh bôi phổ biến nhất trong việc điều trị mụn trứng cá
Erythromycin và clindamycin là hai thuốc kháng sinh bôi phổ biến nhất trong việc điều trị mụn trứng cá

Tác dụng phụ ít gặp, bao gồm hồng ban, lột da, ngứa, khô da, cảm giác bỏng rát, viêm đại tràng giả mạc hiếm gặp, nhưng đã được báo cáo với clindamycin. Tác dụng phụ quan trọng nhất của thuốc kháng sinh là sự phát triển của kháng thuốc, do đó, thuốc kháng sinh bôi không nên được sử dụng đơn trị liệu.

Thuốc kháng sinh uống

Thuốc kháng sinh đường uống hay đường toàn thân được chỉ định điều trị tình trạng mụn trứng cá từ trung bình đến nghiêm trọng. Các tetracycline và dẫn xuất của chúng là các lựa chọn đầu tiên. Macrolide, co-trimoxazole và trimethoprim là những lựa chọn thay thế cho điều trị mụn trứng cá. Các tác nhân sau đây không nên được sử dụng trong mụn trứng cá do thiếu hiệu quả và tính an toàn như cephalosporin, sulphonamide và các chất ức chế gyrase.

Các tác nhân sau đây không nên được sử dụng trong mụn trứng cá do thiếu hiệu quả và tính an toàn như cephalosporin, sulphonamide và các chất ức chế gyrase.

Tetracycline (500 mg-1 g/ngày), doxycycline (50-200 mg/ngày), minocycline (50-200 mg/ngày), lymecycline (150-300 mg/ngày), erythromycin (500 mg-1 g/ngày ), co-trimoxazole, trimethoprim, và gần đây là azithromycin (500 mg x 3 lần/tuần) đang được sử dụng thành công trong mụn trứng cá

Tetracycline (500 mg-1 g/ngày), doxycycline (50-200 mg/ngày), minocycline (50-200 mg/ngày), lymecycline (150-300 mg/ngày), erythromycin (500 mg-1 g/ngày ), co-trimoxazole, trimethoprim, và gần đây là azithromycin (500 mg x 3 lần/tuần) đang được sử dụng thành công trong mụn trứng. Gần đây doxycycline liều thấp (20 mg x 2 lần / ngày) kết hợp với minocycline dạng phóng thích kéo dài (1 mg / kg / ngày) được sử dụng cho  thấy có hiệu quả, nhưng cần thêm các thử nghiệm đối chứng.

Tiêu chảy và nhiễm nấm candida âm đạo là những phản ứng phụ phổ biến nhất. Doxycycline có thể có liên quan đến nhạy cảm với ánh sáng. Minocycline có thể tạo ra sự lắng đọng sắc tố trên da, niêm mạc và răng. Bệnh viêm gan tự miễn, hội chứng giống lupus dạng hệ thống hiếm gặp khi sử dụng minocycline.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *